Tìm hiểu chung
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Chút chít.
Tên khác:
Trút trít; Lưỡi bò; Ngưu thiệt; Dương đề; Gót dê; Trục; Súc quỷ mục; Đông phương túc; Liên trùng lục; Ngốc thái; Dương đề đại hoàng; Thủy hoàng cân; Bại độc thái; Ngưu thiết thái; Kim kiều; Quỷ Phỉ căn; Ngưu đồi; Trư nhĩ đóa; Giả ba thái.
Tên khoa học: Rumex wallichii Meissn, thuộc họ Polygonaceae (Rau răm).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo, cao 30 – 50cm, rễ mập khỏe, dài, màu nâu. Thân mọc đứng, có khía dọc, thường phân nhánh ngay gần gốc. Lá mọc so le, những lá ở gốc có kích thước lớn hơn những lá ở phía trên, phiến lá hình mũi mác, gốc thuôn, đầu nhọn, mép nguyên lượn sóng; bẹ chìa mỏng và trong mờ.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân hoặc kẽ lá thành chùy rộng mang những lá nhỏ suốt chiều dài của chùy; hoa màu vàng lục xếp thành những vòng sít nhau nhất là ở ngọn, bao hoa có 6 mảnh xếp thành hai vòng, những mảnh ở vòng ngoài rụng sớm, 3 mảnh ở vòng trong tồn tại với quả có 1 – 2 răng dài ở mỗi bên mép; nhị 6 đính ở gốc của bao hoa; bầu thượng, hình 3 góc.
Quả nhỏ, bao bọc bởi hoa tồn tại.
Mùa hoa: Tháng 3 – 4, mùa quả: Tháng 5 – 7.
Loài Rumex wallichii Meissn cũng được dùng với công dụng tương tự.
Hình ảnh cây Chút chít
Phân bố, thu hái, chế biến
Rumex L. là một chi lớn trong họ Polygonacceae gồm những cây thảo sống 1 – 2 năm hay nhiều năm, phân bố rộng rãi ở vùng ôn đới ấm hoặc cận nhiệt đới; một số ít loài ở vùng nhiệt đới.
Bài viêt liên quan Nếu gia đình bạn đang thắ:p h:ương kiểu như này, ngay hôm nay cần b.ỏ ngay lập tức, nhiều nhà thường xuyên làm sai mà không biết
Ở Việt Nam , có 6 loài đều được dùng làm thuốc. trong đó, đáng chú ý là cây Chút chít, bởi sự phân bố rộng rãi của nó ở nhiều nơi, từ vùng đồng bằng đến vùng trung du và miền núi. Ở vùng núi cao lạnh khoảng 1500m trở lên, hiếm gặp.
Chút chít là cây ưa sáng; thường mọc trên đất ẩm, nhất là các loại ruộng cạn nước, xung quanh bờ ao hồ; bãi sông, ven suối. Cây con mọc từ hạt thường xuất hiện vào mùa xuân hoặc cuối mùa đông: sau 2 – 2,5 tháng sinh trưởng Chút chít đã bắt đầu có hoa. Khi quả già tự mở, hạt thoát ra ngoài, tồn tại qua vụ hè – thu, có khi bị vùi lấp trong đất ẩm hoặc đất bùn nhiều tháng vẫn có khả năng nảy mầm. Vào thời kỳ sinh trưởng mạnh, nếu toàn bộ phần trên mặt đất bị cắt, phần còn lại vẫn tiếp tục tái sinh cây mới.
Rễ có thể đào quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa thu đông, trong các tháng 8, 9, 10. Đào về, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi khô chóng hơn.
Vị thuốc thường là những mẩu rễ tròn dài 10 – 20cm, đường kính 1 – 1,5cm, mặt ngoài màu nâu có vết nhăn dọc, cắt ngang có vết cắt không bằng phẳng, lổn nhổn, màu vàng nâu, vùng sinh tầng trông rất rõ. Mùi nhẹ, đặc biệt, vị lúc đầu hơi ngọt sau đắng.
Bài viêt liên quan Tận dụng 1m2 cửa sổ, gieo nắm hạt xuống 5 ngày có đủ rau ăn, ngon sạch an toàn, làm ngay kẻo phí
Bộ phận sử dụng
Rễ già của cây Chút chít trên 2 tuổi, bỏ rễ con, rửa sạch, thái thành miếng dày khoảng 0,5 – 1cm, phơi hay sấy khô.
Lá cũng được dùng.
Thành phần hoá học
Trong rễ và lá Chút chít có anthraglucosid. Tỷ lệ anthraglucosid toàn phần trung bình là 3 – 3,4% trong đó chừng 0,47% ở dạng tự do và 2,54% ở dạng kết hợp.
Ngoài ra còn có một ít tanin và nhựa. Trong một loài Rumex japonicus Meins, người ta đã xác định thành phần anthraglucosid là axit chrysophanic và emodin.
Rễ và lá Chút chít có anthraglucosid
Công dụng
Theo y học cổ truyền
Theo Đông y, Chút chít có vị đắng, tính hàn, quy kinh Vị, Tràng. Chúng có tác dụng thông đại tiện, thanh nhiệt, sát trùng.
Thí nghiệm tác dụng cao lỏng và thuốc hãm rễ chút chít trên ruột thỏ cô lập và ếch có tác dụng là tăng trương lực, biên độ co bóp và tần số co bóp của ruột.
Lá sát vào những chỗ hắc lào đã rửa sạch, hoặc dùng nước sắc lá và rễ để chữa hay trị các mụn ghẻ. Có thể dùng uống trong làm thuốc nhuận tràng hay chữa bệnh táo bón, tiêu hoá kém, ăn uống chậm tiêu, vàng da, lở ngứa, mụn nhọt.
Theo y học hiện đại
Dịch chiết bằng ethanol của cây Chút chít có tác dụng ức chế nấm tóc, phần tan trong nước không có tác dụng.
Cây Chút chít chữa tiêu hóa kém
Liều dùng & cách dùng
Rễ Chút chít được sử dụng để làm thuốc nhuận tràng, tẩy xổ, chữa táo bón, bí đại tiện.