Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, rau ngổ tốt tươi, phát triển mạnh dưới các triền cát thấp ẩm, bên khe nước chảy hoặc men theo đầm hồ nhỏ. Đã có nhà văn cho rằng: rau ngổ là “quà tặng thiên nhiên” ưu đãi cho vùng cát nóng ở miền Trung Việt Nam.
Rau ngổ, còn gọi là rau om, ngò om, ngổ hương, ngổ thơm, ngổ điếc, thạch long vĩ, tên khoa học là Limmophila chinensis thuộc họ Scrophulariaceae.
Rau ngổ
Mô tả
Rau ngổ là cây thân thảo có chiều cao khoảng 20cm, thân xốp có nhiều lông. Lá nhẵn, mọc đối, không cuống, hơi ôm thân. Rau ngổ có hai loại: ngổ 2 lá (mọc đối) và ngổ 3 lá (mọc vòng), dùng loại nào cũng được. Thân và lá có mùi rất thơm, giới “sành ăn” cho rằng rau om có vị giữa quế và cumin, đồng thời thoảng nhẹ thêm mùi chanh vì vậy được trồng (hoặc mọc hoang) làm rau gia vị.
Bộ phận dùng:toàn thân cây, người ta thường hái lá non rau ngổ ăn sống, ăn với phở hoặc nấu canh chua. Để làm thuốc, người ta thường thu hái về rửa sạch, thái ngắn để dùng tươi hoặc phơi khô để dành.
Trong rau ngổ có 92% nước, 2,1% protid, 1,2% glucid, 2,1% cenluloza, 0,8% tro, 0,29% vitamin B, 2,11% vitamin C, 2,11% caroten, có chứa nhiều tinh dầu (0,1%), chủ yếu là limonene, aldehyd perilla, monoterpenoid cetone, và cis-4-caranone, ngoài ra còn có các nhóm hợp chất coumarine và flavonoid có tác dụng kháng viêm và kháng khuẩn.
Theo Đông y, rau ngổ có vị cay, thơm, hơi chát, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khái, giải độc, tiêu thũng, trừ viêm, chống sưng, giảm đau, sát trùng đường ruột, làm thuốc lợi tiểu, trị sỏi thận, sốt nóng, chống lão hóa, ngừa ung thư… trị thủy thũng, viêm kết mạc, phong chẩn, thủy đậu, trị những cơn đau thắt bụng.
Tại Trung Quốc, ngò om được dùng để trị chấn thương khi té ngã và trị thủy thũng, sưng kết mạc, mụn ngoài da, rắn cắn và cam tích nơi trẻ em. Ngò om cũng được dùng trị các rối loạn, đau khi có kinh nguyệt, giúp sinh sữa cho sản phụ.
Ở Malaysia: lá rau om được dùng làm thuốc đắp trị đau nhức chân. Rễ và lá, sắc chung để trị nóng sốt, thông đờm khi ho.
Ở Ấn Độ: toàn cây giúp sinh sữa, sát trùng; nước cốt trị nóng sốt, cho sản phụ uống khi sữa bị chua. Lá giã nhỏ đắp vết thương.
Dược lý hiện đại cho thấy:
Hoạt tính chống sưng: nghiên cứu tại đại học Mahidol (Thái Lan) cho thấy ngò om có tác dụng chống sưng đau.
Hoạt tính chống oxy hóa: nghiên cứu phối hợp giữa hai đại học Mahidol University, Bangkok (Thái Lan) và Đại học Y dược Toyama (Nhật) ghi nhận nước chiết ngò om bằng methanol và các tinh dầu của L. aromatica có khả năng thu các gốc tự do, các gốc NO và chống được phản ứng per-oxy hóa lipid. Hoạt tính chống oxy hóa của nước chiết bằng methanol mạnh hơn các tinh dầu.
Hoạt tính kháng khuẩn: flavonoid trong ngò om có những hoạt tính diệt khuẩn khi thử trên các vi khuẩn Bacillus subtilis, Staphylococcus aureus, E. coli, Salmonella typhimurium cho thấy ngò om sát trùng đường ruột và đường tiểu rất tốt.
Hoạt tính diệt tế bào ung thư: nevadensin có hoạt tính diệt tế bào khi thử trên các tế bào ung thư Dalton lymphoma, và ung thư Ehrlich nơi chuột (Swiss albino). Hoạt tính diệt tế bào lên đến 100% ở nồng độ 75mcg/ml (International Journal of Pharmacology số 29-1991).
Một số kinh nghiệm trị bệnh bằng rau ngổ
Trị sỏi thận: rau ngổ có tác dụng lợi tiểu, giảm co thắt cơ trơn, giãn mạch máu, tăng lọc ở cầu thận; do đó làm tăng lượng nước tiểu, tạo điều kiện cho sỏi thận bị tống ra ngoài.
Cách dùng: lấy rau ngổ 50g, để tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước, pha thêm ít muối, uống làm một lần, ngày hai lần. Dùng 5 – 7 ngày. Dùng riêng hoặc phối hợp với râu ngô, mã đề, cối xay. Kiên trì thực hiện bài thuốc này có kết quả khá tốt.
Hoặc dùng rau ngổ giã nhỏ, lấy nước pha ít hạt muối, uống ngày 2 lần vào sáng và chiều (uống liền trong 7 ngày).
Hoặc dùng 50 – 100g rau ngổ tươi xay làm sinh tố uống mỗi ngày (uống trong 15 – 30 ngày) hoặc nấu với 2 chén nước, sôi 20 phút để uống.
Trị sỏi mật, sỏi thận(sỏi bùn, đá): 100g rau ngổ tươi giã nhuyễn, vắt lấy nước cốt, thêm 1 muỗng canh mật ong uống vào buổi sáng lúc đói, liên tục 10 – 15 ngày.
Trị đái dầm: rau ngổ 20g, mùi tàu 20g, cỏ mần trầu 20g, cỏ sữa lá nhỏ 10g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống sau bữa ăn chiều. Dùng 3 – 4 lần.
Trị đái ra máu: rau ngổ 10g, cỏ tháp bút 10g, rễ cỏ tranh 10g, thái nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao vàng rồi sắc uống làm hai lần trong ngày.
Trị ban đỏ: rau ngổ 20g, dây vác tía 20g, măng sậy 10g, đọt tre mỡ 10g, rửa sạch, thái nhỏ, sắc uống trong ngày.
Trị cảm ho: dùng khoảng 20g cây tươi, sắc uống.
Trị ho lâu ngày do viêm phế quản mãn tính, ngủ hay mơ: 50g rau ngổ (om) rửa sạch, giã nhuyễn vắt lấy nước cốt + 3 – 5 hột muối hột uống lúc sáng mới tỉnh dậy chưa đánh răng súc miệng, liên tục 10 – 15 ngày
Trị ho, sổ mũi: 15 – 30g rau ngổ tươi, rửa sạch, sắc kỹ lấy nước uống hằng ngày.
Trị sổ mũi, rắn cắn: rau ngổ 20g, xuyên tâm liên 15g, giã nát, thêm ít rượu, vắt lấy nước uống, bã đắp.
Trị tiểu tiện không thông, tiểu rắt, viêm đường tiết niệu, đau tức vùng bụng dưới (bàng quang), vôi hóa tiền liệt tuyến, phì đại tiền liệt tuyến, đau quặn thận do sỏi thận: dùng toàn cây non của rau ngổ khoảng 40 – 60g, rồi giã nhỏ hoặc bỏ vào máy xay sinh tố, chế thêm một ly nước sôi để nguội, vắt lấy nước và cho thêm ít hạt muối để uống.
Trị viêm tấy đau nhức: 1 nắm rau ngổ tươi rửa sạch, giã nát, đắp vào nơi thương tổn rất công hiệu.
Trị đầy hơi, tức bụng, ăn không tiêu: lấy rau ngổ tươi rửa sạch, mộc hương nam (mua ở các hiệu thuốc nam). Sắc 2 thứ trên với 1.000ml nước còn 250ml thì chia làm 2 lần, uống hết trong ngày.
Trị vết thương ngoài da gây mủ: giã nát vài ba cây rau tươi, đắp lên vết thương.
Trị rắn cắn: 15 – 20g rau ngổ tươi, 25g kiến cò, giã nát 2 vị trên, thêm 20 – 30ml rượu trắng, chắt lấy nước uống, còn bã đắp vào vết cắn. Hoặc lấy 20 – 40g rau ngổ khô, sao vàng, sắc lấy nước uống 4 – 5 lần liền.
Trị herpes: rau ngổ tươi giã nát, chắt lấy nước cốt bôi lên tổn thương herpes mảng tròn (hoặc bệnh ngoài da); kết hợp nấu nước rau ngổ để rửa hằng ngày.
Trị ung thư dạ dày, ung thư tiền liệt tuyến: 100g rau ngổ rửa sạch, giã nhuyễn vắt lấy nước cốt, 50g lá non cây hoàn ngọc giã nát vắt lấy nước cốt (có thể dùng cả bã hoàn ngọc cũng tốt), thêm 1 giọt mật gấu nguyên chất, trộn lẫn tất cả uống (ăn) vào lúc 12h đêm, liên tục hai tháng.
Lưu ý: trong thời gian dùng bài thuốc này, kiêng ăn hải sản, cam, quít, bưởi, mãng cầu ta, nên ăn mãng cầu xiêm, trái lựu, hồng chín, sabôchê.
Làm đầu óc minh mẫn sảng khoái hưng phấn làm việc cả ngày, trị bệnh thiếu máu, táo bón, đầy hơi không tiêu, tiêu mụn bọc, mụn cám, trị gan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ, đau dạ dày cấp, loét hành tá tràng: 100g rau ngổ phơi khô sao vàng hạ thổ 3 lần sắc với 100g bạc hà tươi (cọng chưa tước vỏ) và 100ml nước lã trong 10 phút, uống 1 lần vào buổi sáng lúc đói tốt hơn. Uống 5 thang nghỉ 5 ngày, luân phiên cho đến khi hết bệnh, tối đa 1 tháng (3 lần tổng cộng).
Trong thời gian sử dụng bài thuốc này không sử dụng các bài thuốc có vị bạc hà (dọc mùng).
Trị bệnhgan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ, ung thư ruột kết, ung thư bao tử, ung thư gan: 100g rau ngổ (om) phơi khô sao vàng hạ thổ 1 lần sắc 10 phút với 50g bạc hà phơi khô sao vàng hạ thổ 1 lần trong 100ml nước uống liên tục 1 tháng vào buổi tối, sau khi ăn.
Lưu ý: kiêng ăn hải sản, cam, quít, bưởi, nên ăn mãng cầu xiêm, trái lựu, hồng chín, sabôchê.
Trị bệnhung thư đại tràng, ung thư bàng quang: 100g rau ngổ tươi, 100g lá mùng tơi non giã nhuyễn, vắt lấy nước cốt (có thể dùng cả bã lá mùng tơi cũng tốt), thêm 5 muỗng canh dấm ăn làm từ chuối uống (ăn) vào lúc 12h trưa.
Kiêng ăn hải sản, cam, quít, bưởi, nên ăn mãng cầu xiêm, trái lựu, hồng chín, sabôchê.
Trong ẩm thực, rau ngổ là một loại rau gia vị được dùng nhiều trong các món ăn như làm rau sống, ăn kèm với phở, hủ tiếu hoặc nấu canh chua với cá biển, cá đồng mang lại hương vị đặc biệt thơm ngon và ngăn ngừa nhiều bệnh.
Khi dùng dưới dạng tươi, do thân cây có nhiều lông tơ nên khó rửa sạch hết các vi khuẩn gây bệnh nên khi chế biến các món ăn, nhất là các món ăn sống, vì vậy cần phải rửa rau cho thật sạch, nếu có thể ngâm thêm với thuốc tím, nước muối nhằm tránh ngộ độc thức ăn từ rau ngổ; nhúng rau ngổ vào nước sôi có nhiệt độ 40 – 45oC để diệt trứng sán (vì những cây sống ở đầm lầy, ao hồ, thường hay có côn trùng hoặc trứng sán bám vào thân, lá cây).
Ngoài ra, rau ngổ dễ bị lẫn với rau ngổ trâu (Enhydra fluctuans Lour.) thuộc họ Cúc (Compositae), là loại cây sống nổi trên mặt nước hay ngập nước.